Tên khoa học:
Myristica fragrans Houtt
Tên gọi khác:
Nhục quả; Ngọc quả.
Nguồn gốc:
Nhục đậu khấu có nguồn gốc ở vùng đảo Molucca ở Thái Bình Dương, được nhập trồng vào đất liền ở khắp vùng nhiệt đới Nam Á và Đông – Nam Á. Ở Việt Nam cây chủ yếu được trồng ở các tỉnh phía nam.
Bộ phận sử dụng:
Dùng phần nhân đã phơi hay sấy khô của quả Nhục đậu khấu.
Thành phần hóa học:
Hạt nhục đậu khấu chứa 14,3% nước, 7,5% protein, 36,4% phần tan trong ether, 28,5% hydrat carbon, 11,6% sợi, 1,7% chất vô cơ, 0,12mg/100 calci, 0,24mg/100 phoshor và 4,6mg/100 sắt, 6 – 16% tinh dầu, 14,6 – 24,2% tinh bột, 2,25% pentosan, 1,5% furfural, 0,5 – 0,6% pectin.
Tính vị, quy kinh:
Vị cay, đắng, chát; tính ôn.
Quy vào kinh Tỳ, Vị, Đại trường.
Công năng:
Ôn Tỳ, thu sáp, chỉ nôn, chỉ tả lỵ, tiêu thực.
Chủ trị:
Chữa kém ăn, không tiêu.
Chữa Tỳ Vị hư hàn, đau bụng, đầy hơi, nôn mửa, tiêu chảy kéo dài.
Liều dùng:
0.25-0.5 g/ngày.
Kiêng kỵ:
Không dùng Nhục đậu khấu cho người bệnh lỵ và tiêu chảy do thấp nhiệt.
Lưu ý:
Dùng nhiều hơn 7,5g mỗi ngày có thể gây chóng mặt, mất tiếng hoặc thay đổi giọng nói, thần trí không rõ ràng và có nguy cơ tử vong cao.